Danh sách Blog của Tôi

Thứ Ba, 30 tháng 3, 2010

Hãy tri ân tất cả các tấm lòng đã dấn thân hoạt động và đóng góp cho Phong trào đấu tranh vì nền Dân chủ Tự do tại Việt Nam!


Hãy tri ân tất cả các tấm lòng đã dấn thân hoạt động và đóng góp cho Phong trào đấu tranh vì nền Dân chủ Tự do tại Việt Nam!

            Một ngày đầu năm đẹp trời, chúng tôi nhận được tin vui – nữ luật sư trẻ tuổi Lê Thị Công Nhân đã thụ xong bản án tù giam 3 năm được trở về đoàn tụ với gia đình. Thời gian trước đây vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007, chúng tôi đã có những cuộc gặp gỡ, trao đổi cùng nhau về những vấn đề chính yếu của công cuộc tranh đấu dân chủ, tự do và nhân quyền của đất nước… Chúng tôi rất ái mộ và mến phục nữ luật sư Công Nhân, một người con gái nhỏ nhắn, trẻ trung luôn tươi cười vui với vẻ luôn luôn hồn nhiên. Trong khi hầu như các thanh nữ ở lớp tuổi của cô họ đang mê mải với son phấn, quần là áo lụa, đồ hàng hiệu thời trang, xe máy thời trang đắt tiền … Có những người thanh nữ tiêu tiền như nhặt được, như có cô nhân ngày sinh nhật mình đã tặng bạn cả chiếc xe Honda hiệu @ trị giá hàng trăm triệu đồng không chút vấn vương suy nghĩ. Trong khi đó dấn thân đấu tranh cho dân chủ cũng như anh em trong nước Công Nhân có lúc phải chắt chiu những đồng tiền nhỏ để ủng hộ giúp đỡ những người dân nghèo khó từ các miền quê xa lên Hà Nội kêu oan, vậy mà cô không nề hà dù nguy hiểm đến tính mạng. Công Nhân đã nói rõ : “Tôi đấu tranh chống cộng sản để mong đất nước được dân chủ, người dân thực sự được hạnh phúc…”.

            Chúng tôi gồm tôi – Dương Thị Xuân và một kỹ sư trẻ tuổi sinh năm 1977 tốt nghiệp đại học giao thông vận tải quê gốc ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An tên là Trần Văn Huy mới tham gia Phong trào tranh đấu dân chủ đã đến thăm Công Nhân chiều hôm 12/3/2010 khi cả hai chúng tôi đã mạn đàm trò chuyện với anh Nguyễn Khắc Toàn khá lâu, và tất nhiên không quên hỏi địa chỉ cụ thể của gia đình cô qua anh Toàn chỉ dẫn. Và cả 2 chúng tôi đã được gặp một người con gái kiên cường mới thoát từ nhà tù của chế độ cộng sản giữa căn hộ của gia đình của cô ở khu tập thể của văn phòng chính phủ thuộc phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội.  Người xưa có câu : “ Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại tức là một ngày ở tù bằng ngàn năm ở ngoài”. Trong khi đó cô đã chịu đựng hơn ngàn ngày ròng rã trong trại giam giữa sự canh gác cẩn mật của chế độ lao tù, ở cô phải có một niềm tin sắt đá vào phong trào dân chủ mạnh mẽ đến nhường nào để vượt qua được bước đường khổ ải gian truân ấy. Cô kể với chúng tôi: “có đi tù mới thấy trí tưởng tượng phong phú của con người, cũng không thể tưởng tượng nổi chế độ lao tù của CSVN nghiệt ngã đến độ nào mà kể hết được”.

Trại giam số 5 thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa nơi cô bị giam cầm nằm giữa vùng núi hẻo lánh, khí hậu vô cùng khắc nghiệt vì giáp biên giới Việt-Lào. Trại tù này có hơn 1000 người bị giam giữ ở đó, trong mỗi buồng giam, trung bình có 60 người tù bị nhốt trong một diện tích nhỏ, hẹp mỗi người chỉ được ngả lưng trong phạm vi một chiều 2 mét dài còn chiều rộng chỉ có 60 cm. Tức là các tù nhân phải nằm úp thìa vào nhau mới ngủ được, những người gầy ốm nằm còn khó nếu ai to béo chắc không ngủ nổi. Công Nhân còn kể tiếp : “cán bộ công an cộng sản rất cay cú câu nói của em: “đi tù chưa phải là điều tồi tệ nhất”, nên khi ở trong tù là họ tìm cách để hành hạ em”. Họ nói : “đi tù chưa phải là điều tồi tệ nhất thì họ sẽ làm cho cô sống còn tồi tệ hơn”…”. Song, bị đọa đầy về vật chất thì có lẽ có thể còn chịu đựng được vì con người có thế ăn đói, mặc rách nhưng không thể chịu nổi sự cô đơn ngay giữa bầy đàn. Bởi vì buồng giam của cô toàn bộ là án tù nữ thường phạm, như phạm tội buôn bán ma túy, tham ô, ăn hối lộ, lừa đảo, giết người…Cô nói : “hôm truyền hình nhà nước cộng sản đưa tin Đức cha Ngô Quang Kiệt nhưng lại cắt xén làm méo mó, thất thiệt về việc Ngài nói khi cầm tấm hộ chiếu ra nước ngoài nên gần 60 người trong phòng khi xem tin này họ gần như đồng thanh gào lên đòi giết Đức Cha Tổng giám mục Hà Nội…”. Cô thấy mình đơn độc vì không sao giải thích, hay cho họ biết được sự thật mà hôm nay cô được biết là rõ là do chính quyền cộng sản đã đơm đặt, cắt xén chỉ để vu khống và nhằm nói xấu Đức cha mà thôi. Nhưng cô còn thương cảm hơn cho những nữ tù nhân gồm đủ các sắc tộc người Thượng thuộc các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, cô nói : “Thương họ lắm chị ạ, giữa thế kỷ này công nghệ viễn thông phát triển, trẻ em thành thị, nông thôn còn biết sử dụng Internet, điện thoại di động… mà trong khi đó hầu như tất cả số họ không biết chữ, chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ dân tộc của mình, còn vốn tiếng Việt chỉ bập bẹ được chút ít thôi. Vậy mà họ bị chính quyền và công an CSVN gán tội “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc” và bị kêu án những 6-7 năm tù giam. Như trường hợp của em đây, còn có mẹ thăm nuôi hàng tháng, chứ họ thì phải gọi là lầm lũi trong bóng tối của nhà lao vì gia đình ở xa, nhà nghèo cả năm chẳng có ai thăm nuôi họ cả, mà khi hỏi bị đi tù vì tội gì thì họ nói : “không biết bị kêu án vì tội chi cả ?””.

Em kỹ sư Trần Văn Huy cùng tôi đến thăm Công Nhân chiều hôm ấy cũng cho hay một câu chuyện : “Cậu này có lần phải chỉ huy công nhân vào thi công cột bưu điện viễn thông ở ngay trong trại giam Thanh Chương – Nghệ An, nên cậu đã từng chứng kiến cảnh có phạm nhân đi lao động chẳng may làm gẫy cán xẻng, vậy mà kẻ quản giáo nữ cán bộ công an đã dùng nhục hình là bắt người này nằm úp mặt trên đất trên lưng để cái xẻng gẫy và bắt nằm như vậy từ 7 giờ sáng bắt đầu giờ làm việc cho đến 11 giờ trưa; anh này nếu cựa quậy là bà cán bộ quản giáo ra lệnh cứ cán xẻng đánh ngay…”. Chính trại giam Thanh Chương này dưới sự cai quản của công an đảng cộng sản đối xử tù nhân dã man, bạo tàn như thời trung cổ đã bị ông Võ Văn Nghệ một dân oan tỉnh Thanh Hóa và cô Hồ Thị Bích Khương tố cáo vạch trần đanh thép qua các tài liệu, bài viết, tiếng nói vì họ cũng đã từng bị tù đầy ở đây nhiều năm…

            Chúng tôi rất khâm phục sự chịu đựng trong lao tù của Công Nhân thì cô nói tiếp, giọng rất cảm động : “Em cám ơn tất cả các nhà tranh đấu dân chủ đi trước, chính nhờ có sự đấu tranh của họ mà cuộc sống lao tù của em đã bớt nghiệt ngã, và nhờ họ mà em không đơn độc, vững bước kiên định trên con đường tranh đấu với cộng sản”. Kỹ sư Huy cũng nói : “Khi đọc báo chí trong nước nói về vụ xử án nữ luật sư Lê Thị Công Nhân và luật sư Nguyễn Văn Đài thì từ hôm đó Huy rất ngưỡng mộ Công Nhân và tự nhủ tại sao một cô gái trẻ tuổi hơn mình, thân hình mảnh dẻ mà dám đứng lên tranh đấu với cộng sản, vậy mà mình là đàn ông kém được sao ? Cũng từ đó kỹ sư Huy cùng rất nhiều nam thanh niên, trí thức trẻ tuổi nghĩ thế nên đã mạnh dạn tham gia vào phong trào đấu tranh cho nền dân chủ, tự do và nhân quyền ở Việt Nam.

            Hôm ấy tôi đã chuyển điện thoại của mình cho cô nói chuyện với Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn hỏi thăm trực tiếp, chúng tôi nghe rõ qua điện thoại thấy anh cũng nói : “Công Nhân nói đúng đấy, cách đây chỉ mấy năm thôi, nếu trường hợp của Công Nhân, Nguyễn Văn Đài…vv… thì những bản án tù giam bị nhà nước CS độc tài này gán cho họ không chỉ là 3-4 năm thôi, mà phải là hai con số tức là hơn chục năm tù cho đến chung thân…vv…”. Còn tôi trước đây khi mới tham gia phong trào dân chủ thì luôn thắc mắc : “không hiểu tại sao, những người đấu tranh dân chủ chỉ nêu chính kiến, họ có một tấc sắt nào đứng lên đánh lại người nhà nước đâu mà lại bị tù đày khắc khổ như vậy”. Nhưng khi dấn thân vào tranh đấu dân chủ tôi mới thấy rõ : Nhà nước và đảng cộng sản đã tước đoạt hết quyền con người của người dân dù họ chỉ suy nghĩ và bày tỏ ra mà thôi. Ở Việt Nam người dân làm gì có được tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp, biểu tình, minh tinh, tự do bầu cử, ứng cử, vận động bầu cử…Mà tất cả những quyền con người tối thiểu này đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền Quốc tế, cũng như trong bản Tuyên Ngôn độc lập ngày 2-9-1945, do đích thân ông Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội. Rồi bao sự kiện phi dân chủ, nhân quyền vi hiến khác rất trầm trọng vẫn cứ diễn ra, chẳng hạn như năm 2007, ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra chỉ thị nhấn mạnh : không cho phép có báo chí tư nhân. Năm 2004, ông cựu thủ tướng Phan Văn Khải chỉ thị : hội họp 05 người trở lên phải xin phép…vv…và vv…

             Đảng cộng sản Việt nam độc quyền lãnh đạo chính trị, xã hội một cách tuyệt đối, triệt để, toàn diện, cấm đa nguyên, đa đảng, ai mà kêu gọi đa nguyên, đa đảng như ông Trần Xuân Bách ủy viên bộ chính trị, bí thư trung ương đảng - một cán bộ cộng sản cấp tối cao mà còn bị kỷ luật, bị quản thúc tại gia như tù giam lỏng cho đến chết. Hay như cố lão trung tướng, 3 lần ủy viên trung ương đảng CSVN- cụ Trần Độ, giáo sư Hoàng Minh Chính đấu tranh đòi dân chủ hóa đất nước thì bị công an bao vây quanh nhà, bị cướp tài liệu, bị bắt giam bỏ tù hàng chục năm, khi được thả ra để quản thúc tại gia nếu có ai đến nhà thăm khi ra về đều bị công an bắt giữ, thẩm vấn tra hỏi như tội phạm trộm cắp… Người dân làm chi có quyền hành gì, trong khi đảng và nhà nước luôn luôn nói : chính quyền của dân, do dân, vì dân…vv… Cũng như điều luật nhà nước cộng sản Việt Nam đề ra : “Đất đai là sở hữu của toàn dân”. Nhưng trên đời sống thực tế thì người dân chả có quyền gì, vì chính quyền ở đâu thích lấy đất của dân là lấy, báo chí trong nước phải liên tục đưa tin gần như các tỉnh trên cả nước địa phương nào cũng có cảnh tước đoạt ruộng đất của nhân dân đền bù rẻ mạt như cướp không. Ở Hà Nội năm 2004, dự án lấy đất của dân Phú Thượng, nơi có cánh đồng trồng hoa đào nổi tiếng thủ đô, nhà nước đền bù hơn 20 triệu đồng /1 sào, ngay sau đó họ cho đấu giá lên tới 15 triệu đồng / 1m2. Rồi gần đây mấy lão tướng quân đội CSVN là Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Hữu Anh… đã lên tiếng cảnh báo về việc cho người nước ngoài thuê đất thời hạn dài 50 năm, người nông dân trong nước cũng chỉ được cho thuê đất thời hạn này. Vậy người dân nước ngoài được hưởng như dân trong nước thì đây thực chất có phải là bán nhượng đất không ? Người dân trong nước ai được hỏi về việc này khi ngay cả những người được gọi là đại diện cho dân là “đại biểu quốc hội” có hay biết vụ việc này không ? Đất đai lãnh thổ, lãnh hải có được là do ông cha, tổ tiên lưu truyền lại cho chúng ta ngày hôm nay, vậy mà tình cảnh là như vậy đấy. Thế nhưng nếu ai dấn thân tranh đấu, như nhà nữ báo tự do trẻ tuổi Phạm Thanh Nghiên quê gốc ở Hải Phòng cất lên tiếng kêu thống thiết : “Uất ức biển ta ơi” cảm thương cho những người ngư dân bị tàu của Trung Quốc bắn chết ngay trên biển nhà, và kể cả việc cô ngồi tại gia treo khẩu hiệu “Hoàng Sa-Trường Sa là máu thịt của Việt Nam” mà cũng bị bắt giam tù đầy, bị kêu án 4 năm giam giữ... Trong khi đó cán bộ cộng sản thì như vụ PMU 18, thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến được phục chức, các nhà báo đưa tin vụ việc này thì vô tù hay như vụ dự án xa lộ “Hành lang Đông-Tây” trong thành phố Sài Gòn, phía Nhật Bản đã đưa xét xử vụ cán bộ công ty PCI khai đã đưa hối lộ cho Huỳnh Văn Sỹ hàng triệu mỹ kim thì ông Sỹ này mới chỉ bị kêu về tội cho thuê nhà, tội thiếu trách nhiệm thôi… với mức án 3 năm nhẹ nhàng. Nhưng sau đó do công luận bất bình vì xử án quá nhẹ nên khi xử án phúc thẩm mới nâng lên 6 năm tù giam cho nhân vật bị đem ra tế thần này nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của dư luận trong, ngoài nước…

             Ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần đã nói, ông rất “muốn như ông Phạm Văn Đồng trong thời gian làm thủ tướng mấy chục năm mà chưa hề kỷ luật ai”. Nhưng còn các nhà tranh đấu dân chủ thì sẽ là tù đày, công việc làm ăn bị gây khó dễ, người thì bị tước công việc hành nghề như các luật sư, người thì bị gây tai nạn, chèn xe, phá nhà cửa, bao vây triệt hạ kinh tế khốn đốn đủ đường… Họ còn thủ đoạn hơn nữa là chỉ đạo công an của đảng và nhà nước bao vây mọi sinh hoạt, ngăn chặn, tung tin gây cản trở, phá hoại tình cảm gia đình vợ chồng cha mẹ con cái anh em họ hàng bạn bè hòng cách ly, cô lập làm lung lạc các nhà tranh đấu dân chủ… Các an ninh, viên chức của nhà nước CSVN họ nói thẳng : “Các vị muốn làm giàu thì nhìn mấy ông cán bộ cộng sản vừa nêu đó, còn muốn tranh đấu đòi tự do dân chủ thì họ sẽ bao vây mọi đường để triệt hạ tư tưởng đấu tranh đến cùng…”. Do vậy cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của người tham gia tranh đấu tự do dân chủ vô cùng gian nan vất vả, gian nan, khó khăn, nguy hiểm. Nhưng cho đến hôm nay sự đấu tranh kiên cường của các nhà tranh đấu trong nước vẫn vững vàng và phong trào tranh đấu dân chủ ngày mạnh lên chính nhờ gương đấu tranh kiên trì của các bậc tiền bối cha anh chúng ta đi trước, cũng như sự đóng góp giúp sức rất lớn của tất cả các quý vị yêu dân chủ tự do trên cả địa cầu. Nữ luật sư Lê Thị Công Nhân dũng cảm đấu tranh đã thụ hết án tù giam được trở về với gia đình nhờ các gương tranh đấu của tất cả các nhà tranh đấu trong và ngoài nước đi trước, cũng như sự tiếp sức của các quý vị là minh chứng thực tế nhất cho điều ấy. Thật đúng là :

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, phong trào trở nên mạnh mẽ khi có sự đấu tranh của các nhà dân chủ cộng với sự góp sức của nhiều đồng bào thân hữu qua những cuộc biểu tình và sự ủng hộ quyên góp của các anh chị em trong nước cũng như ở hải ngoại. Ở nước Mỹ, khi tổng thống Obama khi tranh cử có khẩu hiệu “thay đổi”, mỗi người dân hào hứng góp một số tiền nhỏ ủng hộ cuộc tranh cử nhưng đóng góp lớn nhất của họ là sự tin tưởng vào “giấc mơ Mỹ” vào sự thay đổi một đất nước hùng mạnh. Ở Việt Nam, chúng ta muốn đất nước có tự do ngôn luận, người dân được hưởng đầy đủ quyền con người, được cầm lá phiếu đi bầu cử bầu một Quốc hội thật sự của dân, những người dám đứng lên bảo vệ lãnh thổ tổ quốc, bảo vệ quyền con người,… thì không thể ngồi chờ đảng cộng sản VN “ban phát” ân huệ nhân quyền mà phải qua sự đấu tranh của các nhà tranh đấu dân chủ và sự giúp đỡ tinh thần, vật chất của tất cả anh chị em, nền chính trị lạc hậu mới được thay đổi và “ước mơ Việt” mới thành sự thật.

Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ của chúng tôi trong nước rất khó khăn, nhưng chúng tôi cũng không đơn độc, khi chúng tôi từng được biết có những mối quan tâm và chia sẻ miếng cơm, tấm áo của các anh em thân hữu xa gần lúc chúng tôi khó khăn. Sự đóng góp của anh em trong đó chan chứa tình bằng hữu như có các anh chị em trong Nhóm thân hữu ở tiểu bang Oregon bên Hoa Kỳ xa xôi do anh Nguyễn Hà Tịnh đứng mũi chịu sào; như khối đấu tranh 8406 trong quốc nội; như sự kiên trì bền bỉ của các khối yểm trợ 1706, 1906, đài phát thanh VNSR bên Úc Châu mà chị Bảo Khánh, anh Trần Hồng Quân là những người đại diện; các diễn đàn Paltakl trên Mạng do ông Sĩ Hoàng, anh Biển Nhớ, Nguyễn Nam Phong điều hành,…vv… Tất cả những hoạt động hỗ trợ có hiệu quả đó đã giúp chúng tôi vượt qua nhiều khó khăn và động viên chúng tôi kiên trì trên con đường đấu tranh gian lao nguy hiểm đầy chông gai.

Không có sự đấu tranh bền bỉ, kiên trì đóng góp của tất cả các Quý vị thì sẽ không có Dân chủ Tự do cho toàn dân tộc, cho Tổ quốc của Việt Nam yêu thương có chung ông Tổ Vua Hùng vào ngày mai sẽ đến. Tôi nhớ có lần qua làn sóng phát thanh của một đài hải ngoại, ông phóng viên có hỏi tôi : “Thưa chị, chị nghĩ sao chúng tôi là những người căm ghét chế độ cộng sản VN, chúng tôi đã ra nước ngoài và hiện nay đang sống ở một đất nước tự do, dân chủ, cuộc sống của chúng tôi rất đủ đầy hạnh phúc, sung sướng. Vậy thì chúng tôi cần gì phải quan tâm đến tình hình nhân dân và đất nước nữa ?”. Tôi có trả lời ngay quý vị đó là : “Tổ quốc Việt Nam là của tất cả những người con Lạc cháu Hồng, không phân biệt người trong nước hay hải ngoại xa xôi, không phân biệt ý thức hệ. Quý vị đã ra đi và đang yên ổn sống hạnh phúc, đủ đầy bên xứ người, quý vị có quyền suy nghĩ như vậy. Thế nhưng tôi tin là nếu có lòng yêu nước thương dân, có lương tri con người trong sáng, lành mạnh thì quý vị sẽ nhận thức và suy nghĩ khác…”.

Tôi nghĩ dân tộc Việt Nam ta sẽ tri ân tất cả những ai đã dấn thân đấu tranh cho dân chủ, cũng như đóng góp ủng hộ dân chủ ngày hôm nay. Nhà thờ Công Giáo có câu : “Tương lai nhân loại sẽ đi ngang qua các gia đình”. Tương lai của Tổ quốc ta sẽ bừng sáng khi chúng ta không ngừng đấu tranh cho tự do dân chủ, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của tổ quốc, đòi quyền tự do về cho người dân. Chúng ta đồng hành đấu tranh tự do dân chủ có gian khổ, hiểm nguy nhưng chúng ta sẽ ngẩng cao đầu vì đã không sống bo bo chỉ biết một gia đình mình và hãnh diện với con cháu muôn đời mai sau. Rằng : “ Chúng ta không cam chịu sống mất tự do, nặng lòng vì Tổ quốc thương những người dân thấp cổ bé nhỏ, không để mất một tấc đất của Tổ Tiên và nhất là không cúi đầu trước cường quyền của độc tài đảng trị của nhà nước cộng sản. Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam cần tất cả chúng ta chung tay và gắng sức cả vật chất lẫn tinh thần không phân biệt người trong nước hay ở hải ngoại…”.        

            Trong “Bài ca chúc tết thanh niên”  của nhà chí sĩ Phan Bội Châu có viết:

“Dậy ! Dậy ! Dậy!

Bên án một tiếng gà vừa gáy

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng

Thưa các cô, các cậu lại các anh

Đời đã mới, người càng nên đổi mới

Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội

Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn.”

            Lời của Cụ Phan là hồi kèn đồng vang lên kêu gọi thôi thúc tất cả chúng ta hãy- Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn vì giang sơn là của tất cả chúng ta, của tất cả con Rồng cháu Tiên chứ không của riêng đảng cộng sản Việt Nam độc chiếm, độc tài nắm giữ quyền lực tuyệt đối, toàn diện như bao thập niên qua. Tổ quốc Việt Nam có được nền kinh tế phát triển thực sự, nhân dân được tự do ấm no hạnh phúc, quyền con người được tôn trọng thực sự kêu gọi sự đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền của tất cả chúng ta, của tất cả các quý vị nặng lòng vì đất nước hôm nay và ngày mai mãi mãi.

            Một lần nữa chúng tôi xin được tri ân các gương đấu tranh dũng cảm của các nhà tranh đấu dân chủ tiền bối cũng như của các quý vị hiện nay như các Hoà thượng Thích Quảng Độ, Thích Không Tánh; cảm ơn sự quan tâm của các vị khác trong giáo hội như Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, các linh mục Chân Tín, Phan Văn Lợi, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Giải trong nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền và tất cả anh chị em yêu dân chủ trong nước và hải ngoại… Xin cảm ơn các vị tranh đấu cho tự do dân chủ, cũng như xin cảm ơn tất cả các vị có tấm lòng hảo tâm giúp sức vật chất và tinh thần cho phong trào dân chủ trong nước vững mạnh.

Hà Nội ngày 20-24/3/2010

                    Dương Thị Xuân -  ký giả báo Tập san Tự do Dân chủ

Email : hanoihoabinhxanh@yahoo.com

Thứ Sáu, 26 tháng 3, 2010

Hãy thắp cho anh một ngọn nến

Hãy thắp cho anh một ngọn nến Mar 26, '10 5:21 AM
for everyone


Ảnh: Tác giả cung cấp

Sau cùng, suốt 30 năm tạp ghi, viết về cựu chiến binh, viết về thuyền nhân, viết về nước Mỹ, viết về Việt Nam Cộng Hòa, lần này tôi được yêu cầu viết về một mối tình. Nói cho chính xác, viết về chuyện tình của cô nữ quân nhân thuộc hàng thấp nhất của hạ sĩ quan.

Cô hạ sĩ nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tên Lý thị Thương Uyên hiện cư ngụ tại Oklahoma City với Area code 405, giữa cơn giông bão mùa Xuân năm 2010 đã kể lại chuyện đời lính của phụ nữ Việt Nam. Cuộc đời của chính cô. Cô phàn nàn rằng sao không thấy bác viết về chuyện hạ sĩ quan binh sĩ. Không viết về người lính nữ quân nhân thực sự sống chết tại các đơn vị. Sao bác không viết về chuyện của em…

Cô Uyên gửi thư cho Dân sinh Radio sau khi nghe loạt bài về Thủy Quân lục chiến và trận Quảng Trị. Phải chăng cô biết gì về Quảng Trị. Không. Cô gái suốt đời là học sinh và suốt đời đi lính chỉ quanh quẩn ở hậu giang và miền Ðông Nam Phần, chẳng biết gì về cao nguyên, duyên hải hay miền Trung Việt Nam.

Nhưng cô có liên hệ rất nhiều với người yêu thủy quân lục chiến, cô nghĩ rằng trận Quảng Trị là trận của người lính mũ xanh. Cô muốn gửi di vật của trung úy Thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ về cho viện Bảo Tàng tại San Jose.

Lá thư viết như sau:

“Kính gởi bác Giao Chỉ.”

“Em tên thật là Lý thị Thương Uyên hiện ở Oklahoma, xin gởi một kỷ niệm nhỏ đến bác. Mong nó được lưu giữ. Ðã 40 năm qua em giữ nó như báu vật. Qua bao nhiêu cuộc bể dâu nó vẫn ở bên mình. Không biết bao lần em đã tự hỏi nếu một mai chết đi thì nó sẽ ra sao? Có thể bảo con trai liệm chung trong quan tài cho mẹ. Khi sang thế giới bên kia em sẽ gặp Vũ để trả lại cho anh. Nhưng cuộc đời này làm sao biết được ngày mai. Vậy xin bác giữ lại và đặt vào chỗ nào đó cho em yên lòng.”

“Kỷ vật nhỏ bé gửi kèm theo chỉ là bài thơ do trung úy Thủy quân lục chiến Bùi Năng Vũ tặng em cuối mùa thu 1970, lúc đó đơn vị gốc của anh Vũ ở căn cứ Sóng Thần, khu Rừng Cấm, thuộc Tiểu Ðoàn Ó Biển. Vũ đã chết ở trại tập trung Ðà Lạt năm 1978. Ðây là số điện thoại của Uyên (405)…………..”

Ðính kèm là bài thơ của anh Sĩ quan Thủy quân lục chiến viết chữ rất đẹp, trên những tờ giấy màu xám mỏng bỏ trong 1 bao thơ đơn sơ cũ kỹ. Góc bao thơ đề: “Vũ, thủy quân lục chiến. Gửi cho Thương Uyên.”

Phía dưới là hàng chữ: “Nhờ Chỉnh chuyển dùm trao. Cám ơn.”

Bài thơ mở đầu như sau:

Lời hứa buổi hoang sơ tương ngộ.
Chỉ một lần xin nhớ đến trăm năm…

****

Ðọc xong lá thư của cô Uyên, đọc xong bài thơ của anh Vũ, tôi nghĩ đến người lính trẻ đã chết trong ngục tù. Nghĩ đến người nữ quân nhân còn sống ở miền giông bão Hoa Kỳ. Bèn quay số 405….. hỏi thăm…..

Câu chuyện tình được bắt đầu kể lại.

Cô Lý thị Thương Uyên. Ảnh: Tác giả cung cấp.

Uyên quê ở Tân Châu, Hồng Ngự thuộc miền quê Châu Ðốc, chưa học hết trung học nhưng có tên thật đẹp như bút hiệu nên cuộc đời cũng gặp nhiều phiền phức. 16 tuổi lên Sài Gòn ở nhà cậu mợ. 18 tuổi ghi tên vào học lớp hạ sĩ quan nữ quân nhân. Năm 70 ra trường nhưng vì thường cậy có chút nhan sắc lại ba gai nên không được mang cấp bậc trung sĩ. Cô chỉ tốt nghiệp hạ sĩ rồi được gửi đi Vũng Tàu học đánh máy ở trường Truyền Tin.

Tại đây cô gặp thiếu úy Vũ, dân Bắc kỳ. Anh được Thủy quân lục chiến đưa về học lớp sĩ quan truyền tin. Mối tình kéo dài suốt thời gian cả 2 người theo học tại Vũng Tàu. Cô Uyên hỏi bác Giao chỉ có biết đại tá Tạo chỉ huy trưởng trường truyền tin không. Có, bác Tạo trước đây ở San Jose, nhưng bác đã chết rồi. Cô khóa sinh khoe rằng em được bác Tạo cho chụp hình nữ quân nhân truyền tin đang học đánh máy để treo trên tường. Như vậy chắc cô lính trẻ có nhan sắc ăn ảnh đáng được chụp hình quảng cáo cho binh chủng.

Cô kể tiếp rằng mối tình với Vũ là mối tình đầu đẹp đẽ nhất. Khi trung úy đi hành quân Cam bốt, cô Uyên đến thăm hậu cứ trại Cấm, Sóng Thần đã được các bạn đồng nghiệp cho vào phòng truyền tin nói chuyện với người yêu qua siêu tần số hành quân. Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Tình đầu không phải là tình cuối.

Một hôm Uyên khám phá ra rằng Vũ thực ra đã có người yêu. Ðó là cô Sương quê Mỹ Tho, nữ điều dưỡng ở quân y viện Vũng Tàu. Sương quen Vũ từ khi anh nằm tại bệnh viện này. Uyên là người đến sau nên cô quyết định chia tay mối tình đầu đầy nước mắt. Vũ ra vùng hỏa tuyến. Uyên đổi về quân đoàn III. Rồi sau cùng cô đổi về tiểu khu Kiến Hòa thuộc quân đoàn IV. Cô xin đi thật xa miền Ðông, nhưng vẫn nhớ Vũ và giữ mãi bài thơ tỏ tình năm 70.

Từ Hạ Lào trở về, Vũ lấy Sương, mối tình đầu của anh. Năm 1973 Uyên lấy thiếu úy Nhiều, một sĩ quan hải quân, phục vụ trên chiến hạm Trần Khánh Dư.

Từ đó Uyên yên phận làm vợ của người lính biển. Khi mang bầu đứa con đầu tiên, anh chồng sĩ quan hải quân lênh đênh trên biển Ðông đã dặn vợ đẻ con gái đặt tên Cam Tuyền, con trai đặt tên Hoàng Sa. Cam Tuyền cũng là tên một hòn đảo của Hoàng Sa. Và đứa con trai Hoàng Sa đã ra đời tại Mỹ Tho. Hai vợ chồng cùng khoác chiến y nhưng chiến tranh đã chia cắt gia đình thành nhiều mảnh. Chồng hải quân sống trên đại dương. Vợ trực gác tổng đài tại mặt trận xình lầy Bến Tre. Con trai Hoàng Sa gửi về cho bà nội nuôi ở Châu Ðốc.

Cô Uyên tiếp tục hăng hái kể chuyện nhà binh.

Sau mối tình đầu dang dở, cô và chị Sương nay vợ của Vũ đã gặp nhau nối thành tình bạn gái. Cuộc đời nữ quân nhân, với cấp bậc hạ sĩ rồi vinh thăng hạ sĩ nhất đã dành cho cô Uyên những kỷ niệm không bao giờ quên được. Cô đã từng là hoa hậu của các chiến binh độc thân trong đơn vị từ binh sĩ đến hạ sỹ quan. Vì mang cấp hạ sĩ, cô cai Uyên gần gũi với đa số lính tráng hơn là các sĩ quan nữ quân nhân.

Những đêm hỏa châu làm việc dưới hầm truyền tin tiểu khu. Những anh lính ca vọng cổ tán tỉnh. Những lời hò tình tứ qua máy truyền tin lẫn trong tiếng pháo kích. Hỏa châu sáng rực chân trời. Chưa bao giờ cô lại thấy nhớ đời lính như vậy.

Nhưng rồi tháng 4-75 oan nghiệt chợt đến. Anh Vũ, Bắc Kỳ bỏ Sóng Thần từ biệt cô Sương đi trình diện vào tù trên Ðà Lạt. Anh Nhiều, Nam kỳ bỏ vợ con ở Châu Ðốc đi tù trong Ðồng Tháp. Bộ binh cũng vào tù, Hải quân cũng vào tù. Cô lính trẻ có tên như tài tử nhưng chỉ mang cấp bậc hạ sĩ nhất nên không phải đi tù. Dù vậy cô vẫn nhớ thương quân đội Cộng Hòa. Một lần chị Sương ghé Mỹ Tho gặp Uyên báo tin anh Vũ đau nặng trong trại tù. Chị em cùng đi tìm mua thuốc tiếp tế. Mấy tháng sau, Sương ghé lại với ngón tay đeo 2 chiếc nhẫn cưới. Cô vừa đi chôn chồng sau khi nhận xác từ trại tập trung. Anh lính trẻ Bắc Kỳ chết đi để lại cho những cô gái miền Tây di vật cuối cùng. Cô Sương còn cặp nhẫn. Cô Uyên có lá thư tình. Anh Vũ chết rồi. Cô Sương trợ tá quân y không bao giờ lên Ðà lạt nữa. Cô Uyên truyền tin còn đi thăm nuôi chồng 3 lần ở Ðồng Tháp. Rồi anh Nhiều trở về. Thêm 1 đứa con trai ra đời, anh cựu sĩ quan hải quân tuy ra tù “cải tạo” nhưng vẫn còn nhớ mãi biển Ðông nên đặt tên con trai thứ hai là Trường Sa.

Năm 1992 gia đình anh Nhiều và cô Uyên đem cả Hoàng Sa và Trường Sa qua Hoa Kỳ theo diện HO 9. Hai vợ chồng cùng đi làm và nuôi con ăn học.

Nhưng sao cuộc sống hòa bình ở Hoa Kỳ không giống như thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Vợ chồng không còn hòa thuận nên chỉ ở được với nhau thêm 4 năm tại Mỹ rồi chia tay. Lần lượt những đứa con trai trưởng thành đi theo bố về Texas làm ăn. Anh Nhiều có vợ mới. Cô Uyên còn lại ở Oklahoma một mình.

Cháu Hoàng Sa lập gia đình, có 2 đứa con nhưng rồi vợ chồng nó cũng chia tay. Lúc còn ở với nhau, vợ chồng con trai đưa cháu về thăm bà nội. Ðó là những giây phút hạnh phúc nhất của cô hạ sĩ nhất Thương Uyên. Nhưng bây giờ chúng nó bỏ nhau. Vợ Hoàng Sa đưa con về bà ngoại. Cha con nó còn ít gặằp nhau. Chẳng ai còn ngó ngàng gì đến bà nội trẻ cô đơn nhớ đám cháu quay quắt đêm ngày. Năm nay cô mới 60 tuổi. Còn lâu mới lãnh tiền già. Cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa vẫn đi làm tự nuôi thân. Cuối năm 2009 cô bị té trong hãng nên phải nằm nhà, lãnh tiền thương tật vì tai nạn lao động. Suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà. Mùa Ðông 2009 mưa bão triền miên chẳng ra khỏi nhà. Trải qua cái TẾT cô đơn, cô Uyên nghe đài Radio nói về Thủy quân lục chiến đánh trận Quảng Trị 38 năm về trước. Cô bèn đi tìm lá thư tình của Trung úy Vũ, cô nghĩ đến ngày mai rồi mình cũng qua đời trong quạnh hiu giữa mùa tuyết phủ nơi xứ lạ quê người.

Nữ quân nhân VNCH. Ảnh: Tác giả cung cấp.

Những đứa con Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu của cô cũng đang bận rộn bươn trải với cuộc đời mới. Chỉ còn lại một mình, chợt nhớ về mối tình ở trường truyền tin, những vần thơ rất lãng mạn và ngây thơ của người lính trẻ Bắc kỳ. Cô hỏi bác Giao Chỉ rằng nếu bây giờ, đã gần 40 năm rồi, cô vẫn còn thấy nhớ thương mối tình đầu thì có phải tội lỗi không?

Bút tích TQLC Bùi Năng Vũ. Ảnh: Tác giả cung cấp.

Không, cô cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa của tôi, cô hạ sĩ quan truyền tin của tiểu khu Kiến Hòa, nàng cai xếp của tiểu đoàn truyền tin diện địa quân đoàn IV, cô không làm điều gì sai quấy khi ngồi than khóc cho chuyện tình gần 40 năm về trước.. Anh chàng Trung úy Bùi Năng Vũ rất xứng đáng để cô gái Tân Châu ngồi khóc ở Oklahoma, nhớ về những ngày hai đứa ngồi bên hàng dừa ở bãi sau Vũng Tàu. Anh thấy hình em treo trên tường ở phòng học đánh máy trong trường truyền tin. Trung úy thủy quân lục chiến Bắc Kỳ tạm quên cô Sương y tá bên quân y viện để gửi thư tán tỉnh cô khóa sinh truyền tin xinh đẹp. Chàng ký tên bút hiệu Châu Nguyên năm 1970 gửi bài thơ cho Lý thị Thương Uyên.

Lời hứa buổi hoang sơ tương ngộ.
Chỉ một lần xin nhớ đến trăm năm.

Ðó là đoạn mở đầu. Và đây là những trích đoạn tiếp theo:

Bụi đường và tháng ngày còn đó.
Gởi cho Uyên làm kỷ niệm chia ly
Mai anh đi, nghe thời gian rũ cánh
Kiếp phong trần cháy đỏ trên tay
Ðắng cay cho trọn tháng ngày
Cung thương một gánh, tình sầu chưa nguôi…
Ðá trong ly, đá tan thành rượu
Rượu lên men, rượu ngọt lịm môi…
Có một ngàn vì sao
Nằm trong đáy mắt
Như một ngàn hỏa châu thắp sáng
Như một ngàn đóm thuốc trong đêm…
Em ơi! Thương Uyên! Anh là người lính
Mà số trời đã định, cho một cuộc sống
Với quá khứ là tủi nhục,
Hiện tại là đắng cay
Và tương lai chỉ là nấm mồ không tên nơi chiến địa…

Châu Nguyên, cuối thu 70.

Với lá thư tình não nuột như vậy, anh trung úy thủy quân lục chiến đã chiếm được trái tim cô gái Tân Châu. Và như chúng ta đã nghe cô hạ sĩ truyền tin kể lại, khi khám phá ra anh trung úy Bắc Kỳ bắt cá hai tay, cô đã bỏ đi để buộc anh phải trở lại với mối tình đầu. Ðể anh lấy chị Sương, người con gái Mỹ Tho.

Cô Uyên nói rằng, thưa với bác, em nhường Vũ cho chị Sương, nhưng em hỏi bác vì bác cũng là Bắc Kỳ, thơ này có phải thực lòng của anh Vũ không. Có phải thơ của Vũ làm không? Bác trả lời rằng, thơ này nhiều phần chính Vũ đã làm. Bác chưa từng đọc được lời thơ này ở đâu cả. Rất chân thành tuy cũng có phần cường điệu.. Người lính trên khắp thế giới đều vẫn thường đưa cái chết ra để dọa dẫm người tình và dọa dẫm cả chính mình,.Ngày xưa, ở tuổi 20, mới vào quân đội, Vũ cũng là hình ảnh của những anh Bắc Kỳ như bác… Anh nào cũng thơ thẩn bước vào đời. Thơ không làm được thì chép thơ thiên hạ tán đào. Bây giờ nhớ lại, ngượng chín cả người.

Quí vị đã nghe tôi kể chuyện của cô Uyên với nội dung không phải là một bi kịch ai oán não nùng. Không hề có những tình tiết éo le rắc rối. Nhưng mối tình đầu đã làm cô tưởng nhớ về những năm còn trong quân đội. Tuy bom đạn triền miên nhưng sao lại quyến rũ như vậy. Dù cô chỉ là 1 người lính đàn bà. 18 tuổi nhập ngũ, 25 tuổi tan hàng, với 7 năm quân vụ. Bây giờ đã 35 năm sau cô vẫn còn nhớ mãi về đời lính.

Bác có nhận giữ hộ lá thư của anh Vũ không. Cô gái Tân Châu hỏi tôi như vậy. Trả lời rằng, bác sẽ lưu giữ trong Museum câu chuyện tình của anh chị. Xin gửi kèm cho bác vài tấm hình kỷ niệm. Báu vật quý giá của cô sẽ là di vật của Việt Nam Cộng Hòa. Ở đây không phải chỉ toàn là những trận đánh oai hùng. Phải có cả những câu chuyện tình hết sức đơn giản như mối tình của cô Uyên với anh Vũ, chuyện vợ chồng của anh Vũ với chị Sương. Chuyện chia tay của cô Uyên với anh Nhiều. Những đứa con mang tên Hoàng Sa và Trường Sa. Và sau cùng là chuyện cô gái cựu chiến binh, cô cai xếp Việt Nam Cộng Hòa giữa trời mưa bão mùa đông Oklahoma ngồi khóc cho mối tình 40 năm về trước.

Thưa bác, bây giờ em phải làm gì, cô Uyên hỏi tôi lần nữa.

Tôi trả lời rằng: Trung úy Vũ là người yêu đầu tiên của cô năm 1970 và bây giờ sẽ là người yêu cuối cùng vào năm 2010. Trong đoạn cuối của bài thơ ,Vũ đã viết rằng tương lai của anh chỉ là nấm mồ không tên nơi chiến địa.

Vậy cô Uyên hãy thắp cho anh Vũ một ngọn đèn.

Ngọn đèn tưởng niệm…
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn…
Hãy thắp cho em một ngọn đèn…
Hãy thắp cho nhau một ngọn đèn…*

*(thơ Nguyễn Ðình Toàn)


Hãy Thắp Cho Nhau Một Ngọn Đèn

Nhạc và lời : Nguyễn Đình Toàn

Khánh Ly trình bầy

I.

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù mịt mùng xa xăm,
Một ngọn đèn trong đêm mờ ám.
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn

Dù chẳng còn hơi ấm,
Cho lạnh lùng thấm qua lòng anh.
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Một ngọn đèn trăm năm,

Rồi thả đèn trôi trên dòng sông.
Như tháng giêng trong đêm nguyệt rằm
Người thả đèn trên sóng,
Cầu nguyện cho những ai trầm luân.

Đêm quê hương
Đêm treo trên một cành ngang,
Chôn nhau xong làm dấu nhớ chỗ ai nằm.
Cơn mưa giông

Đêm qua đông trời lạnh lắm,
Gió khắp bốn bể cây rừng.
Núi run hình bóng
Mai rạng đông

Đến lượt ai đem chôn?
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù tình đời mong manh,
Lòng chẳng còn trong mong gì nữa.

Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Tình còn là tình nhắn,
Chẳng còn đèn sẽ soi ngày không.
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn

Để một mình trong đêm,
Anh tưởng nhìn ra em còn hơn.
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Một ngọn đèn tai biến,
Một ngọn đèn tóc tang dửng dưng.

II.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Bằng lửa sầu tim anh,
Một ngọn đèn lênh đênh ngày tháng.
Cố thắp cho em một ngọn đèn

Dù mệt nhoài trông ngóng,
Để nhủ lòng gắn nuôi niềm tin.
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Một ngọn đèn đau thương,

Đã nhạt nhòa hơn hơi tình duyên.
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Bằng nhọc nhằn cay đắng,
Bằng hình hài rã trong trại giam.

Ôi đêm đen
Đêm mang trăm niềm ai oán
Đêm chôn ta từng canh vắng
Đêm âm thầm.

Đêm thê lương
Đêm không mong trời sẽ sáng
Đêm nghe xương rời rã buồn.
Ngón tay bẻ đôi

Như ngày xanh
Gẫy từ em qua anh.
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Dù lửa tàn trong anh,
Không còn đủ khêu thêm đèn sáng.

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong tăm tối,
Có mộng còn biết nơi tìm sang
Cố thắp cho em một ngọn đèn

Rồi thả hồn bay lên,
Nơi hẹn hò không tên gặp em.
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong xa vắng,
Em còn được cháy trong lòng anh.

III.

Cố thắp cho nhau một ngọn đèn
Để dù trong tăm tối,
Ta còn được cháy trong lòng nhau.

© Giao Chỉ

Thứ Tư, 17 tháng 3, 2010

Tại Hà Nội đảng viên Việt Tân tiếp nối các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam

Tại Hà Nội đảng viên Việt Tân tiếp nối các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam Mar 17, '10 10:10 AM
for everyone
Ngày 14 tháng 3 năm 2010
Thông Cáo Báo Chí
Tại Hà Nội đảng viên Việt Tân tiếp nối các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam

Trước tình trạng hàng loạt các tiếng nói yêu nước bị nhà cầm quyền CSVN bịt miệng bằng tù ngục, sáng ngày 14/3/2010, một số đảng viên Việt Tân đã có mặt tại khu Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội để tiếp nối các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam.

Trước cổng đền Ngọc Sơn, các đảng viên Việt Tân đã công khai phân phát đến đồng bào các tặng phẩm bao gồm áo thun và mũ mang giòng chữ HS.TS.VN. Đây chính là câu khẩu hiệu “Hoàng Sa Trường Sa Việt Nam” đã được thanh niên sinh viên Việt Nam hô vang trong các cuộc biểu tình trước sứ quán và lãnh sự quán Trung Quốc vào tháng 12/2007; và cũng là một trong những dòng chữ đã được các nhà yêu nước Hải Phòng treo trên 2 cầu vượt vào tháng 8/2008.


Qua việc làm này, các đảng viên Việt Tân ước mong được cùng với dân tộc

• Tuyên bố: Chủ quyền đất nước là điều tối hệ trọng đối với dân tộc Việt Nam và không thể đem ra trao đổi dù dưới bất kỳ hình thức nào.

• Khẳng định: Yêu nước và bày tỏ lòng yêu nước là quyền của mỗi người Việt Nam. Báo động về hiểm họa mất dần từng phần đất, biển, đảo, rừng là bổn phận khẩn cấp của tất cả mọi người Việt Nam.

• Công khai bày tỏ: Lòng biết ơn sâu xa đối với tất cả các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh bảo vệ chủ quyền đất nước tại Hoàng Sa năm 1974, dọc theo biên giới phía Bắc từ năm 1979, và các chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến ngày 14/3/1988 chống hải quân Trung Quốc để bảo vệ Trường Sa.

Quyền tự do bày tỏ ý kiến một cách ôn hoà là một trong những quyền căn bản của con người. Không một chính quyền nào có thể ngăn cấm. Hơn thế nữa, những hành động bày tỏ lòng yêu nước lại càng phải được tôn trọng và xiển dương. Không một nhà cầm quyền bình thường và chân chính nào trên thế giới hiện nay lại muốn trấn áp lòng yêu nước và ý chí bảo vệ quốc gia của toàn dân. Đảng Việt Tân sẽ tiếp tục tiến hành các hình thức đấu tranh bất bạo động để đóng góp phần mình trong bổn phận bảo vệ quyền tự do của người dân và bảo vệ chủ quyền đất nước.

Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua mọi trở lực để giữ gìn từng tấc đất quê hương trải hơn 4000 năm hy sinh của cha ông để lại.

Ngày 14 tháng 3 năm 2010
Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng


HS.TS.VN tại Hà Nội — phóng sự bằng hình



Vào sáng ngày 14/3/2010, tức ngày giỗ thứ 22 của 64 chiến sĩ Việt Nam trong trận chiến chống Trung Quốc bảo vệ Trường Sa, linh qui tại Hồ Hoàn Kiếm nổi lên mặt nước. Một sự kiện hiếm hoi tại Hà Nội.





Trước đền Ngọc Sơn, những con dân Việt khác đang tiếp nối nỗ lực bảo vệ chủ quyền quốc gia



Có người chỉ mới biết về hiểm họa mất nước





Có người muốn biết rõ hơn vì báo đài nhà nước đều im lặng.





Việt Nam phải vẹn nguyên



Yêu nước và hãnh diện bày tỏ lòng yêu nước đương nhiên như nhịp thở





Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua mọi trở lực để giữ gìn từng tấc đất quê hương trải hơn 4000 năm hy sinh của cha ông để lại.

Việt Tân

Chủ Nhật, 14 tháng 3, 2010

_Tại Hà Nội đảng viên Việt Tân tiếp nối các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam

 

 

Tại Hà Nội đảng viên Việt Tân tiếp nối các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam
Việt Tân

JPEG - 10.6 kb

VIỆT NAM CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG
Email: lienlac@viettan.org - Web: www.viettan.org - Blog: http://vnctcmd.wordpress.com

****

Ngày 14 tháng 3 năm 2010

Thông Cáo Báo Chí

Tại Hà Nội đảng viên Việt Tân tiếp nối
các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam

Trước tình trạng hàng loạt các tiếng nói yêu nước bị nhà cầm quyền CSVN bịt miệng bằng tù ngục, sáng ngày 14/3/2010, một số đảng viên Việt Tân đã có mặt tại khu Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội để tiếp nối các hành động tuyên nhận chủ quyền Việt Nam.

Trước cổng đền Ngọc Sơn, các đảng viên Việt Tân đã công khai phân phát đến đồng bào các tặng phẩm bao gồm áo thun và mũ mang giòng chữ HS.TS.VN. Đây chính là câu khẩu hiệu “Hoàng Sa Trường Sa Việt Nam” đã được thanh niên sinh viên Việt Nam hô vang trong các cuộc biểu tình trước sứ quán và lãnh sự quán Trung Quốc vào tháng 12/2007; và cũng là một trong những dòng chữ đã được các nhà yêu nước Hải Phòng treo trên 2 cầu vượt vào tháng 8/2008.

JPEG - 56.6 kb

Qua việc làm này, các đảng viên Việt Tân ước mong được cùng với dân tộc

• Tuyên bố: Chủ quyền đất nước là điều tối hệ trọng đối với dân tộc Việt Nam và không thể đem ra trao đổi dù dưới bất kỳ hình thức nào.

• Khẳng định: Yêu nước và bày tỏ lòng yêu nước là quyền của mỗi người Việt Nam. Báo động về hiểm họa mất dần từng phần đất, biển, đảo, rừng là bổn phận khẩn cấp của tất cả mọi người Việt Nam.

• Công khai bày tỏ: Lòng biết ơn sâu xa đối với tất cả các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh bảo vệ chủ quyền đất nước tại Hoàng Sa năm 1974, dọc theo biên giới phía Bắc từ năm 1979, và các chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến ngày 14/3/1988 chống hải quân Trung Quốc để bảo vệ Trường Sa.

JPEG - 53.2 kb

Quyền tự do bày tỏ ý kiến một cách ôn hoà là một trong những quyền căn bản của con người. Không một chính quyền nào có thể ngăn cấm. Hơn thế nữa, những hành động bày tỏ lòng yêu nước lại càng phải được tôn trọng và xiển dương. Không một nhà cầm quyền bình thường và chân chính nào trên thế giới hiện nay lại muốn trấn áp lòng yêu nước và ý chí bảo vệ quốc gia của toàn dân. Đảng Việt Tân sẽ tiếp tục tiến hành các hình thức đấu tranh bất bạo động để đóng góp phần mình trong bổn phận bảo vệ quyền tự do của người dân và bảo vệ chủ quyền đất nước.

Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua mọi trở lực để giữ gìn từng tấc đất quê hương trải hơn 4000 năm hy sinh của cha ông để lại.

---- oOo ----

Ngày 14 tháng 3 năm 2010
Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng

Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy:  <馬ʻ>            

<馬ʻ> +1 (202) 470-0845         +1 (202) 470-0845
Ðối Ðầu Bất Bạo Ðộng để tháo gỡ độc tài - Xây Dựng Xã Hội Dân Sự để đặt nền dân chủ - Vận Ðộng Toàn Dân để canh tân đất nước

_TRÁI BOM NỔ TRONG LÒNG ÐẢNG

TRÁI BOM NỔ TRONG LÒNG ÐẢNG
Lương tâm dân tộc thức tỉnh, hai tướng CSVN báo động:
VIỆT NAM ÐANG BÊN LỀ THẢM HỌA XÂM THỰC!

Hà Nhân Văn


Ðối với người Việt Nam từ những ngàn xưa, yêu nước và giữ nước đã thành đạo, cũng là một thứ “gien” trong tim và óc. Do vậy, dù là một đảng viên CS trung kiên nhất, nghĩa là “đảng trên hết, đảng trước hết” nói như HCM, có một phút nào đó, tự thức tỉnh trở về với đạo nước của ông cha. Ðó là trường hợp Trung tướng CS Ðồng Sỹ Nguyên và Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh mà cựu Ðại tá Bùi Tín trong một bài báo mới đây đã nói tới và ca tụng. Thật rất đáng ca tụng: ý thức phản tỉnh xuất phát từ đáy lòng hai ông “đất nước đang lâm nguy, đang bên lề phá sản”, giặc ngoại xâm đã xâm nhập vào tận trung tâm đất nước. Ý thức dân tộc tự phản tỉnh đã và đang bùng lên dù mới chỉ là nhen nhúm, âm ỉ nhưng sẽ có một ngày “tức nước vỡ bờ”, bão tố sẽ nổi lên. Dù ngoan cố cách mấy, dù ngang ngược, bạo tàn cách mấy, CSVN cũng không thể chống lại nổi.

Trường hợp Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Ls. Trần Lam, kể cả cựu ủy viên bộ chính trị ÐCSVN là Lê Phúc Thọ là những dấu chỉ rõ nhất cho ta biết: ÐCSVN đang trên đà thoái trào. Trên 50 năm trước, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiên tri về một tập đoàn Hồ tinh sẽ tự chuyển từ giai đoạn “thư lại kết đoàn” như Lê Ðức Anh, chủ tịch nước Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu đã cấu kết với nhau rồi sẽ bước qua giai đoạn ly trung tự hoại, nghĩa là giòi bọ xâu xé từ bên trong rồi tự nó trong lòng đảng sẽ tự hủy như đã và đang diễn ra từ Hà Nội và trên khắp nước hiện nay. Nhưng đến khi ÐCSVN tự hoại thì đất nước VN cũng đã khánh kiệt, tan hoang! Ai là người cứu nguy dân tộc? Ai là một minh quân Lê Thánh Tôn? Ai là Quang Trung làm “anh hùng cái thế”? Ai là người sẽ lấy lại bô xít Ðắc Nông? Ai là người đủ sức mạnh thu hồi lại 264,000 héc ta rừng và tài nguyên 10 tỉnh đã ký kết bán đứt cho 10 công ty quốc doanh của Trung quốc để họ khai thác, vơ vét trong 49 năm. Chỉ cần mười năm, họ sẽ vét nhẵn nhưng hậu quả sẽ là 100 năm, 1000 năm... 10 tỉnh là 10 tô giới TQ, 10 cộng đồng Hoa - Hán xâm thực.

HỌA XÂM THỰC TRUNG QUỐC ÐỎ

Hai vị tướng lãnh CS kể trên đã khẩn cấp báo động: ÐCSVN, tỉnh ủy và UBND 10 tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Bình, Bình Ðịnh, Bình Dương ... đã “cho phép” 10 công ty quốc doanh TQ thuê đất và rừng dài hạn để kinh doanh. Phần lớn là tỉnh đầu nguồn, biên giới, theo báo cáo mật của bộ nông nghiệp mà 2 vị tướng này thu thập được. Ðây là hồi chuông trầm thống báo tử! Có thể nào lay chuyển nổi giới lãnh đạo ÐCSVN không? Câu trả lời chắc là không. Các đầy tớ của Bắc Kinh có mặt ngay tại bộ chính trị, ở chính phủ trung ương, ở tòa án nhân dân tối cao, ở quốc hội và các tỉnh... Ðơn dẫn: Nông Ðức Mạnh, Tô Huy Rứa, Nguyễn Phú Trọng (QH), Lê Hồng Anh (Ðại tướng, bộ trưởgn bộ CA), Uông Chu Lưu (Phó CTQH đặc trách ngoại vụ). Chúng ở ngay trong Việt tấn xã và báo điện tử của TƯÐ do Ðào Duy Quất làm tổng biên tập. Ðóng vai trò đầy tớ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất và tin cẩn nhất của Bắc Kinh là Nguyễn Chí Vịnh, Tổng cục II và T.4 tức cơ quan siêu tình báo mà 2 tướng Nguyên và Vĩnh đã từng lên tiếng tố cáo và phản đối trước Ðại hội X. Nhưng Vịnh vẫn là một quyền lực khuynh đảo từng được Lê Ðức Anh quyết liệt bảo vệ Vịnh và Tổng cục II.

Các khu rừng ở 10 tỉnh là “rừng vàng”, ngoài tài nguyên mỏ như uranium ở Nghệ An, rừng ở các tỉnh này như Bình Dương - Kontum rất phong phú về dược thảo, thí dụ như sâm. Nghệ An - Quảng Bình nổi tiếng về sâm, gọi chung là sâm Bố Chính, lại còn bạt ngàn gỗ quí... Ðau xót biết dường nào! Nói như người xưa: “trắng mắt nhìn của cải đội nón ra đi”! Và đi về Tầu! Hãy tưởng tượng 200,000 mẫu rừng, biết bao tài nguyên mà kể! Các công ty TQ sẽ đưa công nhân sang khai thác, sống trong nhượng địa với qui chế riêng, theo luật lệ TQ. Ai cấm công nhân cuối tuần ra ngoài “du dương”? Họ sẽ lấy một người vợ bản xứ rồi sinh con đẻ cái, cộng đồng nhượng địa Hoa - Hán mỗi ngày một lớn mạnh, đất nước VN sẽ thành mảnh da beo ngoại xâm! Lớp người Hoa mới này (khoảng 700,000 - năm 2008) không phải là người Việt gốc Hoa trước năm 1975 ở miền Nam. Họ là Hoa - Hán thuần túy thế hệ Ðại hán bành trướng bá quyền. Cộng đồng người Việt gốc Hoa trước năm 1975 ở miền Nam VN, phải gọi cho chính danh, đa số là người Hoa gốc Việt, đến VN từ giữa thế kỷ 17 khi nhà Minh sụp đổ (1644). Một sử gia Tây phương nghiên cứu tường tận về Hoa kiều ở ÐNA, phần Hoa kiều ở VN, ông cho rằng: “Người Tầu ở VN không phải là người ngoại quốc về đủ phương diện từ thế hệ này qua thế hệ khác... ở VN họ cảm thấy như ở Tầu (Helmut G. Callis, Foreign Capital in Southeast Asia - Tư bản nước ngoài ở ÐNA, N.Y. 1941, tr. 85). Ðiều này không lạ do họ đến từ Phúc Kiến, Triết Giang, Quảng Ðông và Hải Nam. 1000 năm trước Thái sư Hồng Hiến, Tể tướng của vua Lê Ðại Hành, sử ghi ông là người phương Bắc (Việt Ðông - xem Ngô Thời Sỹ, Việt sử tiêu án, tr. 97: “Thái sư Hồng Du (tức Hiến) dù là người Tầu, thông hiểu kinh và sử, thường theo vua đi đánh giặc, làm quân sư bàn mưu tính kế, xử đoán việc nước, vua tin dùng như người tâm phúc”. Thái sư đã cùng vua Lê Ðại Hành đánh tan quân Tống Trung Hoa năm 981, chém đầu Nguyên soái giặc Hầu Nhân Bảo. Hồng Hiến được thờ ở miếu Lịch đại đế vương, Huế, ngang với Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão. Sau này danh nhân miền Nam VN như Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Ðức, Phan Thanh Giản tuy gọi là Tầu Minh hương nhưng là Tầu gốc Việt cũng như Thái sư Hồng Hiến xưa. Ngay như Tôn Ðức Thắng, chủ tịch VNDCCH thay HCM dù gọi là người Tầu, người Hoa nhưng là Hoa gốc Việt, không dính một hạt bụi Hoa - Hán. Hoàn toàn khác với lớp Hoa Hán tràn qua VN từ thập niên 1990 đến nay, họ đã được giáo dục “An Nam là đất cũ của Trung quốc!” Họ đã được dạy qua bản đồ TQ, “An Nam thuộc lãnh thổ nhà Nguyên (Mông Cổ thống trị TQ)”. Họ đâu có biết những trang sử oai hùng của ta ba lần đánh tan rã quân Nguyên Mông! Hoa kiều trước năm 1945, theo sử gia Callis (đã dẫn), tài sản của họ để ở VN, mồ mả cha ông họ ở VN, chỉ gửi về Tầu khoảng 2% lợi tức của họ như một công tác bác ái. Nay thì khác, họ vơ vét đem về Tầu. Cộng đồng người Việt gốc Hoa trước năm 1975 chính là CÐ Hoa gốc Việt, hoàn toàn hội nhập vào đất nước Việt. Nay thì khác, hơn 700,000 người Hoa mới “thế hệ 1990-2000” là những lưu dân xâm thực. Và, họ sẽ là đạo binh thứ 5 sẵn sàng làm nội ứng cho Bắc Kinh.

Sự lên tiếng của hai tướng lãnh CS tuy đã muộn nhưng là những lời cáo giác đau lòng cháy ruột, có giá trị như hồi trống cửu liên nổi lên! Xưa hồi trống cửu liên (9 hồi) nổi lên ở Phong Châu thì chỉ một mùa trăng cả nước đứng lên, cuốn trôi cả 64 thành trì của Hán đô hộ. Bây giờ thì khác! Cái khác ấy đã và đang đưa VN đến bên lề mất nước. Sao lại khác xưa? Những thái thú Tô Ðịnh đang hàng hàng lớp lớp, nó khởi từ xâm lăng văn hóa rồi xâm lăng kinh tế, kể cả ngôn ngữ Việt. Tôi thí dụ: báo Tuổi Trẻ tường thuật MC-NCKD đưa bạn trai mới về Sàigòn “NCKD đi bên bạn trai mới rất là giao lưu”! Một bà mẹ khuyên con: “Con à, con phải khẩn trương bảo quản hạnh phúc với chồng con!”

TRÁI BOM NỔ TRONG LÒNG ÐẢNG 

Trung tướng Ðồng Sỹ Nguyên từng là Tư lệnh binh đoàn Trường Sơn (đường mòn HCM), lớn hơn hai quân đoàn, với quân số 200,000 quân. Tướng Nguyên có cả ngàn sĩ quan cấp tá dưới quyền. Ông lại là trùm hội cựu chiến sĩ Trường Sơn. Do vậy, tiếng nói của ông tố cáo Ðảng bán hơn 200,000 mẫu đất rừng, hầm mỏ đã tựa như trái bom CBU nổ giữa lòng Ðảng. Nhốn nháo cả lên! Bộ chính trị và CA không thể nào bưng bít được nữa! Rồi tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, ủy viên TƯÐ, 14 năm làm Ðại sứ đặc mệnh toàn quyền ở Bắc Kinh, ông đã biết tỏ tường lòng nham dạ hiểm của họ. Sự tố cáo của ông là một giá trị trong thực tế: “Ðấy! Chúng nó cho Hoa - Hán thuê cả “chỗ kín” của bà nội bà ngoại, vợ và con gái của chúng nó!” Ðồng bào VN ơi! Ở cương vị đại sứ, đọc thông nói thông thạo Hoa ngữ, 14 năm ở Tầu với biết bao quan hệ, hẳn ông Vĩnh đã có những thông tin chính xác về họa ngoại xâm và nội xâm. Lời tố cáo nghiêm trọng của tướng Vĩnh hẳn là làm sáng mắt hàng tướng lãnh và cựu chiến binh VNCS. Hai lão tướng, một người 87 tuổi, một người trên 94, huy chương treo đầy ngực, đã chỉ ra các hiểm họa của đất nước cho các đồng chí và chiến hữu của hai ông rõ. Thơ luân lưu phát tán khắp nước, lại được hỗ trợ của nhóm Gs. Nguyễn Huệ Chi qua bài viết nẩy lửa ngày 22-1-2010, ấy là chưa kể hơn 4,000 trí thức đã ký tên phản đối vụ bô xít Ðắc Nông.

CS ở đâu cũng vậy, thống trị nhân dân bằng sự hãi sợ và cái dạ dầy. Nay thì cái sợ đã và đang tan. Cái dạ dầy cũng không còn chịu khuất phục đảng nữa! Nhưng, vẫn là những cái nhưng xót xa! Tổng cục II siêu tình báo vẫn còn chình ình ra đó! Uncle Sam vẫn còn vuốt ve mơn trớn CSVN. Một số quyền lực đen nào đó ở nước Mỹ này vẫn tiếp tục bao che và hỗ trợ lãnh đạo đảng CSVN. Họ tung tin cho người nhẹ dạ có ảo tưởng rằng VN sẽ có một Gorbachev ra đời! Ôi! Dù có một một trăm Gorbachev VN cũng thế thôi! Gorbachev cho đến khi rời điện Cẩm Linh, vẫn còn mãi miết cứu nguy ÐCS Liên Xô! Về Tổng cục II, bao lâu nó còn tồn tại thì ÐCSVN còn tồn tại! Chúng nó bất chấp, chỉ cần Tầu và Mỹ là đủ. Tổng cục II là bàn tay sắt, biến hóa muôn hình vạn trạng của đặc vụ Bắc Kinh. Kẻ nào o oe đi trái đường lối của Bắc Kinh, Tổng cục II cho ăn đòn. Nó nắm tất cả bí mật đời tư của các ông bộ chính trị, TƯÐ, đảng ủy tỉnh và thành phố. Ai tung tin và hình ảnh con gái Nguyễn Tấn Dũng, 25 tuổi, mới du học Thụy Sĩ về nước, lập công ty đã có 50 triệu đô la làm vốn? Ai cho thiên hạ biết “kín kín hở hở” tấm hình Tổng bí thư Lê Khả Phiêu “trần trùng trục” đang hì hục ân ái với cô gái Tầu trong khách sạn sang trọng ở Thành Ðô (Tứ Xuyên)? Ai tiết lộ mật sự Phiêu có đứa con hoang với cô gái Bắc Kinh trong cuộc du dương với người đẹp Bắc Kinh. Thế là Lê Khả Phiêu răm rắp nghe lời đường mật của Giang Trạch Dân và Lý Bằng. Có thể nói, cả bộ chính trị, chính phủ, quốc hội, tòa án tối cao trở xuống đều khép nép sợ hãi Nguyễn Chí Vịnh. Sau Vịnh lẽ tự nhiên là đặc vụ Bắc Kinh.

Có 3 cái dù che chở cho ÐCSVN, nói đúng hơn 3 sức mạnh làm cho ÐCSVN sống dai, sống mạnh: một là cái sợ hãi; hai là Tổng cục T-2, đặc vụ Bắc Kinh trá hình; ba là mấy ông quyền lực đen ở ngay nước Mỹ này được hóa trang che phủ bởi chiêu bài mỹ miều “nhân quyền, dân chủ và tự do”. Nguyễn Cao Kỳ và những NCK chẳng qua cũng là công cụ của quí ông ấy. Nói thẳng ra, Thiền sư Nhất Hạnh và Ni cô thân tín trước đây cũng là công cụ của đám quyền lực đen “nhân quyền, dân chủ, tự do này”. Phải nói rõ: khi Sư ông Nhất Hạnh và Làng Mai (hóa thân từ Làng Hồng (!)kéo nhau tưng bừng rộn rã về VN để gọi là “chay đàn”, cũng là do bàn tay “lông lá” đạo diễn cả, đã gây tai hại không phải là nhỏ cho công cuộc đấu tranh của GHPGTN và Ðại lão Hòa thượng Thích Quảng Ðộ.

Các tướng Nguyên, Vĩnh và nhóm Gs. Nguyễn Huệ Chi đã tự giác ngộ, đã tỉnh thức! Các đảng, liên minh, mặt trận, phong trào ở hải ngoại cũng phải tỉnh thức, chớ có cả tin ăn bánh vẽ, uống nước đường! Cái sợ hãi CS thì đã và đang tan. Còn lại hai cái to như núi vẫn còn chình ình ra đấy! Ai cứu nguy CSVN? Quá rõ, cựu đại sứ Mỹ Peterson mở bước tiên phong! Tiên phong trong công khai mà thôi! Nếu không xảy ra vụ đàn áp Bát Nhã, chắc hẳn Sư ông Nhất Hạnh vẫn nín khe! Thế mới biết Ðại lão HT Thích Quảng Ðộ thật là một đại sĩ phu của thời đại. Xin hãy tin nơi ngài. Lúc này hãy chỉ tin nơi ngài mà thôi. Hơn một lần trên mục này, tôi mạo muội phát biểu rằng chỉ có con đường dân tộc mới giải phóng được dân tộc thoát khoải tai họa nội xâm CSVN. Sự lên tiếng đầy can đảm và khí phách của tướng Nguyên, tướng Vĩnh và nhóm CS Nguyễn Huệ Chi là lương tâm dân tộc. Ngoài HT Quảng Ðộ, ÐTGM NGô Quang Kiệt là tâm thanh dân tộc. Trước sau ÐCSVN sẽ vỡ vì đại nghĩa dân tộc. Nhiệt liệt đón chào sự tỉnh thức rất khí phách của 2 tướng lãnh CS và trên 4,000 trí thức VN. CÐVNHN hãy cho các quyền lực đen ở đất nước Mỹ được biết rõ thế nào là lương tâm dân tộc Việt, sự tỉnh thức của dân tộc Việt.